Khi đến nhà ông Công ở xóm Thượng xã Phúc Hương, tôi phải qua bãi đất hoang, một bãi đất chừng mấy mẫu. Nghe nói bãi đất này nằm trong quy hoạch xây chung cư. Bãi đất đầy cỏ và các cây hoa hoang dại. Những cây hoa chỉ nhìn thấy ở miền đồi núi. Kể cũng lạ. Những cây hoa nhỏ nhoi, xơ xác ấy cứ mọc thẳng vươn mình giữa đám bụi cây xanh tốt.
Đúng như nhiều người nói, ngay đầu thôn có một căn nhà ngói ba gian thấp lè tè, ngói xám xịt. Ngôi nhà đó có hàng cây bao quanh bám vào cọc tre, những thứ cây mà ngày trước người dân hay trồng để dùng hàng ngày xen lẫn những cây chỉ nhìn thấy ở bãi đất hoang. Những cây hoang dại, hàng cây tựa như bức tường này cứ ngả nghiêng, xiêu vẹo như sẵn sàng đổ sập xuống bất cứ lúc nào. Kể cũng lạ. Sau cổng gỗ là một bà già với khuôn mặt dài chằng chịt nếp nhăn ngồi như một pho tượng, nhìn đăm đăm ra ngoài. Không hiểu bà đang ngẫm nghĩ gì hay chỉ là thói quen cố hữu. Cách ngôi nhà đơn độc, lạc lõng ấy là ao nhỏ, tiếp đến đoạn dãy nhà cao tầng bề thế, duyên dáng cửa hàng, cửa hiệu. Hết dãy nhà này là năm ngõ rẽ vào thôn.
Tôi dừng xe trên đường để cố nhớ lại nhà ông Công. Ông này đã dặn nhưng giờ tôi quên bẵng. Ông không ở nhà cũ mà vừa sang ngõ mới.
Cố nhớ mà cũng không được. Tôi liền đến gần chiếc cổng gỗ của ngôi nhà ở đầu thôn.
- Bà ơi cho cháu hỏi nhà ông Công ở ngõ nào ạ?
Bà cụ khẽ khàng:
- Ngõ ba ông ạ. Trước nhà có giàn trầu không. Ông ấy có con chó tây dữ lắm, ông phải gọi từ cổng, chớ đi thẳng vào.
Có một ông vừa đến sau tôi.
- Ở đây có nhà trọ không hả bà?
- Có. Ông Du ở ngõ cột điện trước mặt. Nhà ông ấy ở cuối ngõ. Ông phải gọi rõ to vào vì ông Du bị nghễnh ngãng tai.
*
Theo ông Công, thôn Thượng có nhiều cái lạ. Lạ từ ngôi nhà ba gian này. Lạ với bà già này. Lạ từ năm ngõ này. Còn lạ những gì nữa?
Lạ ngôi nhà ba gian thì rõ rồi, cả thôn toàn nhà cao tầng mà lại có ngôi nhà thấp lè tè từ thời tám hoánh đứng lẻ loi, thêm nữa là cái ao nhỏ cạnh nhà mà quanh bờ đủ thứ cây thập cẩm, màu đen kịt, đầy rác rưởi. Không hiểu vì sao người ta chẳng lấp đi để khỏi ô nhiễm rồi xây nhà. Nghe nói cái ao đã có mấy chục năm rồi.
Lại lạ đầu thôn có tới năm ngõ rẽ vào. Ông Công bảo, trước đây chỉ có ba ngõ, sau này do nhiều người từ nơi khác chuyển đến mà mới sinh thêm hai.
Ông Công ngồi ghế chễm chệ, trên bàn là mấy lon bia. Dạo này ông ta chơi sang ghê.
- Thôn ông không khác gì phố, ông là thị dân rồi.
Ông cười hề hề:
- Thôn tôi sắp sát nhập thị xã, chả ai là nông dân nữa. Ruộng hầu như hết sạch.
- Đường vào thôn ông rất lạ, nhất là ngõ ngoài cùng. Sao đông người, xe đến thế?
- Có lý do chính đáng. Cũng tại bệnh viện mới xây.
Thì ra một bệnh viện tư mới mở ở cuối thôn. Thôn này ít dân nhưng nhiều đất nhất xã. Người ta xây bệnh viện cũng phải khi thị xã mở rộng. Thực ra từ huyện lộ có con đường to rộng trải nhựa bóng loáng tới bệnh viện nhưng phải đi vòng vèo qua thôn bên xa gấp đôi, gấp ba so với ngõ thôn đây. Ra vậy.
- Ông bảo thôn này còn khối điều lạ?
- Ông hỏi để làm gì? Ông cũng biết, tôi là dân nơi khác chuyển đến. Cứ gọi dân ngụ cư là phải giữ mình.
Ông Công ở xã bên lấy vợ thôn này. Mẹ vợ chỉ có mỗi con mà lại là gái. Vậy là ông tình nguyện ở rể. Nhà ông có những ba trai, ông là út.
- Làm rể ở một thôn có tiếng cả xã là vinh hạnh rồi.
Ông hể hả:
- Thôn này ít dân nhưng oách nhất xã.
Oách mà ông nói là họ Nguyễn đông nhất xã, nhất là thôn Thượng. Bao năm nay cán bộ chủ chốt của xã, của thôn đều do họ Nguyễn nắm giữ. Họ Nguyễn với chi lớn chi bé, chi mẹ chi con chiếm quá nửa xã, riêng thôn Thượng thì chủ yếu chiếm gần hết. Bầu cử ban bệ, đoàn thể nào họ này đều áp đảo. Theo sử sách còn giữ lại tới ngày nay, cách đây gần 300 năm một ông quan võ từ mạn Nam Định, Thái Bình đã kéo nhiều người trong dòng họ nhà mình cùng với binh lính, phu phen tạp dịch ở một số nơi về vùng đất trung du này vỡ đất, khai hoang lập nên nhiều làng xã, trong đó có xã đây. Sau này một số họ Nguyễn ở vùng khác cũng về. Cái tên xã Phúc Hương hẳn có ý ghi công ơn ông quan ấy.
- Giờ tôi mới biết ẩn ý cái tên xã này. Cũng lạ thật.
Ông thủng thẳng:
- Điều này mới là lạ. Ông đã biết rõ chưa?
- Chắc về bà cụ mà ông có lần kể?
Ông trầm ngâm:
- Bà ấy thật khổ. Tôi có lần nhắc chuyện bà già với ông chủ tịch xã người thôn này, là cháu ông Đạo. Ông ta gật gù: "Bà Lại khổ nhưng khối người trong xã hội còn khổ hơn. Biết cũng đành chịu chứ làm sao được”. Ông trưởng thôn em họ Đạo tặc lưỡi: "Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh. Nhà nào chả có chuyện nọ chuyện kia”.
Ông Đạo mà ông Công nhắc tới là trưởng họ Nguyễn thôn này, chồng bà Lại, bà già có ngôi nhà ba gian ở đầu thôn. Thời chống Mỹ cứu nước, một đơn vị bộ đội đóng quân ở một xã xứ Thanh, Đạo chàng tân binh bẻm mép tán tỉnh cô dân quân. Sự sa đà tình yêu đã dẫn đến điều tai hại bấy giờ. Khi cô gái có thai hai tháng cũng là lúc Đạo và đơn vị lên đường vào Nam. Nhiều người tưởng chàng lính kia sẽ qua cầu rút ván với cô gái làng. Ai ngờ hơn tháng sau, trên đường hành quân, Đạo mang khuôn mặt sưng vù tím tái trở lại đưa người yêu về quê mình. Việc xuất ngũ của Đạo đã có bao điều dị nghị, cho đến nay vẫn chưa được sáng tỏ. Dĩ nhiên gã không bao giờ hé lộ ra. Hai năm sau khi kết thúc chiến tranh, Đạo được ông bạn học cùng lớp với em họ mình là lãnh đạo của thuế tỉnh tuyển vào làm cán bộ thuế huyện. Từ ngày ấy Đạo đổi đời ăn trắng mặc trơn, có xe máy duy nhất trong thôn, tiêu pha thẳng cánh. Rồi gã nhăng nhít với cô gái trẻ măng giàu có, con một bà buôn chuyến. Cô ta chửa vượt mặt bắt đòi cưới. Gã bị buộc thôi việc. Sau khi kiên quyết bỏ vợ và hai đứa con, gã đưa cô gái về quê dựng ngôi nhà hai tầng ở cuối thôn.
Tôi ngạc nhiên:
- Họ hàng ông Đạo không can ngăn gì à? Lại còn thôn, xã?
- Cũng có vài ba người trong dòng họ lên tiếng nhưng ông ta cậy là trưởng họ át đi. Cán bộ xã, thôn cũng đều trong họ. Đã bảo dòng họ Nguyễn lớn lắm. Một thời gian ông Đạo còn là phó thôn, rồi làm mặt trận thôn. Chuyện tưởng như đùa.
- Vậy là bà Lại thui thủi đằng đẵng nuôi hai con?
- Thì không bà là ai! Đạo từ ngày có vợ mới chả cưới xin gì, không hề đặt chân tới nhà cũ cũng chẳng đoái hoài gì hai đứa con đầu, dù một đứa ốm nặng tưởng chết.
Ông Công bảo, cả thôn này không ai khổ như bà Lại. Không họ hàng thân thích, bơ vơ làm dâu xứ người, cơ cực nuôi hai con. Bà làm đủ mọi việc ngoài đồng áng còn đi làm thuê làm mướn, mò cua bắt ốc, ốm mấy cũng phải gượng đi làm. Tủi nhất với bà là vắng người đến chơi. Xưa có mấy bà già lui tới sau đều mất, ốm đau quanh năm. Lớp trẻ thì dửng dưng. Người ta coi chuyện bà già nơi khác ở đây cô đơn cũng là lẽ thường tình.
- Bà còn có hai đứa con? Trẻ cậy cha, già cậy con ...
- Bà nhục, đau đớn vì con. Con gái bị người ta rủ rê sang bên kia biên giới giờ vẫn biệt tăm biệt tích. Con trai lêu lổng, từ bé bỏ nhà, bỏ cửa nay vẫn không biết ở đâu. Mấy năm nay bà cụ vẫn ngồi ở cổng ngóng chờ con, nhìn mà tội. Nhưng tôi nể phục bà cụ gần tám chục tuổi đầu nhưng vẫn sinh hoạt Chi hội Người cao tuổi thôn và dù không ai đôn đốc vẫn tình nguyện đóng góp thứ nọ thứ kia trong các cuộc vận động của đoàn thể. Mà bà cụ có dư giả gì, mọi tiêu pha đều trông vào số tiền ít ỏi từ việc đền bù đất và hỗ trợ người già của nhà nước.
Trên đường trở về tôi ngồi rõ lâu chuyện trò với bà cụ, bỗng sững người khi chợt nhận thấy trong ánh nắng loang lổ xế chiều có một bông hoa màu xanh bé nhỏ hoang dại ẩn khuất trong hàng rào cây. Vậy mà lúc sáng qua đây tôi đã không nhìn thấy. Bà cụ ngồi ngay sau cây hoa ấy. Lạ thật.
Đỗ Nhật Minh