Dân tộc Sán Dìu là một trong số ít những dân tộc còn gìn giữ được những bài dân ca truyền thống mà họ gọi là "Soọng cô”. Hát Soọng cô đã hình thành, tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của dân tộc Sán Dìu, hiện được lưu truyền chủ yếu ở một số địa bàn như Thái Nguyên, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc và Bắc Giang. Dân tộc Sán Dìu là một trong những dân tộc thiểu số sinh sống lâu đời tại tỉnh Bắc Giang. Họ thuộc nhóm ngữ hệ Hán - Tạng, có nguồn gốc từ vùng Quảng Đông (Trung Quốc), di cư vào Việt Nam từ khoảng thế kỷ XVII - XVIII. Người Sán Dìu còn có các tên gọi khác như "Trại", "Trại Đất", "Mán Quần Cộc", phản ánh những đặc điểm văn hóa và phương thức sinh sống của họ. Tại Bắc Giang, người Sán Dìu tập trung chủ yếu ở các huyện như Lục Nam, Lục Ngạn, Sơn Động, Lạng Giang và một số khu vực khác có địa hình trung du, miền núi. Họ sinh sống bằng nghề nông nghiệp, kết hợp với các nghề thủ công truyền thống như dệt vải, làm giấy dó và khai thác lâm sản.
Người Sán Dìu có một nền văn hóa phong phú, mang nhiều nét đặc trưng riêng. Về Trang phục truyền thống: Nam giới thường mặc áo ngắn, quần ống rộng, còn phụ nữ mặc áo năm thân, váy dài kết hợp với khăn vấn đầu, tạo nên nét đặc trưng riêng biệt. Về Tín ngưỡng: Họ có tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thờ thần rừng, thần núi, thần sông và các vị thần bảo hộ cộng đồng. Các nghi lễ cúng bái thường diễn ra vào dịp đầu năm mới, lễ cầu mùa, lễ vào nhà mới... Về Ẩm thực: Món ăn tiêu biểu của người Sán Dìu có thể kể đến như bánh tro, bánh rợm, thịt chua, xôi ngũ sắc… phản ánh tập quán sinh hoạt và tín ngưỡng của họ. Về Kho tàng văn hóa dân gian: Người Sán Dìu có kho tàng truyện cổ, tục ngữ, câu đố phong phú. Đặc biệt, họ nổi tiếng với lối hát Soọng cô, một thể loại dân ca giao duyên được thể hiện theo lối đối đáp nam - nữ trong các dịp hội xuân hoặc sinh hoạt cộng đồng.
"Soọng cô" theo tiếng Sán Dìu có nghĩa là "hát đối đáp", vừa có giá trị đậm bản sắc văn hóa vừa có giá trị văn học, thể hiện tâm tư, tình cảm của con người với thiên nhiên, tình yêu đôi lứa và các vấn đề trong đời sống xã hội. Cách hát đối đáp có nguồn gốc từ các làn điệu dân ca của người Hán di cư từ Quảng Đông (Trung Quốc) vào Việt Nam từ thế kỷ XVII - XVIII. Qua thời gian, thể loại hát này đã được địa phương hóa, mang đậm dấu ấn văn hóa của người Sán Dìu tại Bắc Giang. Ban đầu, Soọng cô chỉ xuất hiện trong những dịp hội làng, lễ hội xuân, hoặc các cuộc gặp gỡ giữa nam nữ thanh niên. Dần dần, hình thức hát này phát triển rộng rãi, trở thành một sinh hoạt văn hóa không thể thiếu trong đời sống cộng đồng người Sán Dìu.
Phần lớn các bài hát Soọng cô có nội dung về tình yêu đôi lứa, ca ngợi thiên nhiên, tình cảm gia đình, tình bạn và triết lý nhân sinh. Lời hát được sáng tác theo thể thơ 4 hoặc 6 câu, vần điệu uyển chuyển, dễ nhớ, dễ thuộc. Soọng cô có giai điệu mượt mà, trữ tình, mang tính ngẫu hứng ví dụ như: Lòi tạo nhóng son, pê tông lu/ Pê tông lu phèng, bí lòng hàng/ Hàng tạo nhóng son, dịp ốc sộ/ Lóng nhóng sáy sộ, hý cô sang… (Làng em có đường bê tông/ Đón anh đến đường bê tông bằng phẳng/Anh đến làng mời vào nhà ngồi/Với chúng em cùng vui ca hát)…. Người hát có thể sáng tác lời mới ngay tại chỗ để đối đáp, tạo nên sự linh hoạt, hấp dẫn trong biểu diễn. Trai gái người Sán Dìu thường quen nhau trong mùa hội, mến nhau qua câu hát và đến với nhau bằng sự rung động của con tim. Mỗi điệu hát vang lên là niềm cảm xúc khó tả đối với đồng bào, nó gợi nhớ về một thời trẻ hào hoa, háo hức trước những mùa hội, những đêm trăng hẹn hò và cả những mối tình tha thiết. Với người Sán Dìu, đối với hình thức hát giao duyên ban đêm thường có một bên nam và bên nữ đứng hoặc ngồi đối diện nhau, hai bên hát ăn nhịp theo từng bước chuyển tiếp gồm: Hát mở đầu (Pát cô thói), mời gọi cùng hát (soi cô). Tiếp đến là hát tỏ tình trai gái (long hói cô), hát mời ăn đêm (sêch phan cô), hát gà gáy năm canh (cay tháy cô), hát sáng bình minh (then song cô) và cuối cùng là hát chia tay hẹn gặp lại (hun lý cô). Hát Soọng Cô thường diễn ra tại các hội xuân, hội làng, đám cưới, lễ cầu mùa, hoặc trong những buổi sinh hoạt cộng đồng.
Thông qua hát Soọng cô, người Sán Dìu duy trì và củng cố các mối quan hệ trong cộng đồng. Lời ca chứa đựng nhiều bài học về đạo đức, tình yêu quê hương đất nước, lòng hiếu thảo và tình nghĩa vợ chồng, lối hát này góp phần duy trì và phát triển ngôn ngữ Sán Dìu, giúp thế hệ trẻ hiểu và sử dụng tiếng mẹ đẻ. Hát Soọng cô có thể trở thành một sản phẩm du lịch hấp dẫn, thu hút du khách tìm hiểu về bản sắc văn hóa người Sán Dìu.
Hiện nay, hát Soọng cô của người Sán Dìu tại Bắc Giang đang đối mặt với nhiều thách thức trong công tác bảo tồn và phát huy. Mặc dù là một loại hình nghệ thuật dân gian đặc sắc, phản ánh sâu sắc đời sống văn hóa của người Sán Dìu, nhưng việc duy trì và truyền dạy Soọng cô đang gặp nhiều khó khăn, bởi vì: chủ yếu được lưu truyền bằng phương thức truyền miệng, không có hệ thống ghi chép đầy đủ, dẫn đến nguy cơ mai một theo thời gian. Quá trình đô thị hóa và sự phát triển của các phương tiện giải trí hiện đại làm cho lớp trẻ ít quan tâm đến nghệ thuật truyền thống, dẫn đến việc hát Soọng cô dần bị lãng quên. Các không gian sinh hoạt cộng đồng như hội làng, lễ hội truyền thống ngày càng giảm, ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường thực hành Soọng cô. Số lượng nghệ nhân am hiểu sâu sắc về hát Soọng cô ngày càng ít, trong khi thế hệ trẻ chưa thực sự mặn mà với việc học hỏi và thực hành loại hình nghệ thuật này. Chưa có nhiều chương trình truyền dạy bài bản, chủ yếu vẫn dựa vào những buổi sinh hoạt không chính thức trong cộng đồng. Việc đưa Soọng cô vào giáo dục chưa được thực hiện rộng rãi, khiến thế hệ trẻ không có nhiều cơ hội tiếp xúc với loại hình nghệ thuật này. Việc bảo tồn Soọng cô vẫn còn gặp nhiều khó khăn về mặt chính sách, chưa có nhiều chương trình cụ thể để hỗ trợ các nghệ nhân truyền dạy hoặc phục hồi không gian biểu diễn.Nguồn lực đầu tư cho bảo tồn Soọng cô còn hạn chế, chưa có nhiều dự án nghiên cứu, sưu tầm và tư liệu hóa các bài hát Soọng cô để lưu giữ lâu dài.
Để nỗ lực trong công tác bảo tồn loại hình hát độc đáo này, một số địa phương ở Bắc Giang đã thành lập các câu lạc bộ hát Soọng cô, tổ chức các buổi giao lưu, truyền dạy trong cộng đồng (huyện Lục Ngạn hiện có). Một số nghệ nhân cao tuổi vẫn tích cực truyền dạy cho lớp trẻ, giúp bảo tồn những làn điệu truyền thống, tiêu biểu như Nghệ nhân Ưu tú Nguyễn Văn An hay Trần Văn Ba... xã Giáp Sơn (Lục Ngạn) đang góp sức sưu tầm, truyền dạy dân ca cho giới trẻ, tổ chức các buổi hát giao lưu dân ca trong và ngoài địa phương... Các lễ hội văn hóa dân gian của người Sán Dìu được tổ chức hàng năm cũng góp phần duy trì không gian trình diễn hát Soọng cô. Việc ghi âm, ghi hình và số hóa các bài hát Soọng Cô đang được một số nhà nghiên cứu và cơ quan văn hóa thực hiện, góp phần lưu trữ và phổ biến rộng rãi hơn.
Để bảo tồn bền vững loại hình nghệ thuật này, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp như:
Tăng cường tuyên truyền về giá trị nghệ thuật, lịch sử và văn hóa của Soọng cô thông qua các phương tiện truyền thông, hội thảo khoa học và sự kiện văn hóa. Khuyến khích cộng đồng người Sán Dìu tích cực tham gia vào các hoạt động bảo tồn và truyền dạy Soọng cô, coi đây là trách nhiệm chung của thế hệ hôm nay đối với di sản cha ông để lại. Đề xuất đưa hát Soọng cô vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia, từ đó có cơ sở để thực hiện các chính sách bảo tồn lâu dài. Hỗ trợ các nghệ nhân dân gian về mặt kinh phí, điều kiện tổ chức sinh hoạt và truyền dạy để họ có thể tiếp tục duy trì, phát huy di sản.
Các câu lạc bộ hát Soọng cô ở các địa phương cần tổ chức các buổi sinh hoạt định kỳ để duy trì không gian thực hành nghệ thuật. Đưa hát Soọng cô vào các chương trình giáo dục về văn hóa dân gian tại các trường học trên địa bàn có đông người Sán Dìu. Tổ chức các chương trình giao lưu, liên hoan hát Soọng cô giữa các câu lạc bộ, địa phương nhằm tạo động lực và không gian biểu diễn cho loại hình nghệ thuật này. Nghiên cứu, sưu tầm và biên soạn thành sách hoặc tài liệu giảng dạy về hát Soọng cô để phổ biến rộng rãi. Khuyến khích sáng tác các bài Soọng cô mới dựa trên làn điệu truyền thống nhưng có nội dung phù hợp với đời sống hiện đại, góp phần đưa Soọng cô đến gần hơn với công chúng. Hợp tác với các nhà nghiên cứu, trường đại học để có những công trình khoa học chuyên sâu về hát Soọng cô, góp phần nâng cao giá trị học thuật và thực tiễn của loại hình nghệ thuật này.
Ghi âm, ghi hình và số hóa các làn điệu Soọng cô để lưu giữ, phổ biến trên các nền tảng trực tuyến, giúp người dân có thể tiếp cận và học tập một cách thuận tiện. Xây dựng các ứng dụng, website, kênh YouTube về hát Soọng Cô, giúp quảng bá và lan tỏa giá trị nghệ thuật đến công chúng trong và ngoài nước.Sử dụng công nghệ thực tế ảo (VR), tư liệu hóa các buổi biểu diễn Soọng cô để tái hiện không gian văn hóa truyền thống, phục vụ giáo dục và du lịch.
Lồng ghép biểu diễn hát Soọng cô vào các chương trình du lịch cộng đồng, giúp du khách có cơ hội trải nghiệm và tìm hiểu về văn hóa người Sán Dìu. Tổ chức các tour du lịch khám phá văn hóa Sán Dìu kết hợp với trải nghiệm hát Soọng cô tại các làng truyền thống. Phối hợp với các công ty lữ hành để quảng bá hát Soọng cô như một sản phẩm du lịch đặc trưng của Bắc Giang.
Mặc dù đang gặp nhiều thách thức, nhưng với sự quan tâm của các cơ quan quản lý văn hóa, nhà nghiên cứu và cộng đồng, Soọng cô của người Sán Dìu ở Bắc Giang hoàn toàn có thể được bảo tồn và phát huy hiệu quả, góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn hóa dân gian Việt Nam trong đời sống thời đại mới./.
Thanh Huyền